Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và
lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp
nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh
nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Theo quy định này, để được công nhận là PNTM, thì pháp nhân đó phải thỏa mãn
các điều kiện sau:
Một là, trước hết phải là pháp nhân.
Thế nào là pháp nhân?
Theo Điều 74 BLDS năm 2015, quy định về pháp nhân, như
sau:
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp
luật có quy định khác.”
Từ quy định này, có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau: Pháp nhân là tổ
chức được thành lập hợp pháp, có cơ cấu thống nhất, có tài sản riêng và tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan
hệ pháp luật một cách độc lập.
Hai là, PNTM đó có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia
cho các thành viên.
Cần lưu ý rằng, không phải mọi pháp nhân được thành lập đều là PNTM. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, ngoài PNTM được quy định tại Điều 75 BLDS năm
2015, còn có pháp nhân phi thương mại.
Điều 76 BLDS năm 2015, quy định về pháp
nhân phi thương mại, như sau:
- “1. Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên.
- 2. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.
- 3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Ba là, PNTM phải là doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp là
tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.” Trước đây, theo BLDS
năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005 (được thay thế bởi BLDS năm 2015, Luật
Doanh nghiệp năm 2014), không quy định về PNTM mà chỉ có Luật Thương mại năm
2005, quy định về“thương nhân” và “hoạt động thương mại”. Theo đó, tại Điều 6
Luật Thương mại năm 2005, quy định: Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại
trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương
thức mà pháp luật không cấm. Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương
nhân được Nhà nước bảo hộ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật này, hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác.
Loại hình Hợp tác xã vận tải nói riêng và hợp tác xã nói chung được quy định
tại Luật Hợp tác xã năm 2012, mà theo đó, khái niệm hợp tác xã theo khỏan 1
Điều 3 Luật này: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư
cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương
trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng
nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”. Như vậy, HTX là tổ chức kinh tế, có
tư cách pháp nhân, thỏa mãn quy định về PNTM theo quy định tại Điều 76 BLDS
năm 2015.
BLHS năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2018, có quy định về PNTM. Đây là một nội dung quan
trọng, làm thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống, bên cạnh nguyên
tắc cá thể hóa TNHS đối với cá nhân người phạm tội, BLHS năm 2015 còn đặt ra
TNHS đối với thực thể gọi là“Pháp nhân thương mại” trong nhiều tội phạm. Điều
này, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới do PNTM gây ra, nhất là trong lĩnh vực kinh
tế, môi trường, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng, theo quy định tại Điều 74 BLDS
năm 2015, pháp nhân là tổ chức, được thành lập theo qui định của luật. Thông
thường, tổ chức là một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó
(doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học, hợp tác xã...) phù hợp với chức
năng và lĩnh vực hoạt động, bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của loại
hình tổ chức đó. Như vậy, loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
theo Luật Doanh nghiệp 2014; tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư,
công ty luật hợp danh) theo Điều 33, Điều 34 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi,
bổ sung năm 2012) là pháp nhân là một mâu thuẫn so với quy định Điều 74 BLDS
năm 2015.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 chưa đưa ra khái niệm chung nhất về pháp nhân mà chỉ
nêu ra các điều kiện để được công nhận là một pháp nhân. Mặt khác, tại điểm c
khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015, quy định điều kiện “pháp nhân có tài sản độc
lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”,
như vậy “công ty hợp danh”, “công ty con” theo Luật Doanh nghiệp năm
2014 được coi là pháp nhân nhưng không đáp ứng các điều kiện này. Bên cạnh đó
điều kiện “pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập” tại điểm d khoản 1 Điều 74 Luật này, cũng được xem là không cần thiết
bởi điều kiện “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”
là hệ quả tất yếu của pháp nhân, chỉ có sau khi pháp nhân đã được công nhận
chứ không thể là một trong những điều kiện để hình thành và xem xét công nhận
pháp nhân.
Có thể tham khảo tại Điều 1 - Khái niệm về pháp nhân đưa ra trong Hiệp định
khung về khu vực đầu tư ASEAN: “Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý
nào được thành lập hoặc tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi
nhuận hoặc không vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao
gồm mọi công ty, tập đoàn, liên danh, liên doanh, công ty một chủ hoặc hiệp
hội” hay theo khoản 1 Điều 50 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga, quy định:
“Các pháp nhân có thể là các tổ chức, mà tìm kiếm lợi nhuận phái sinh với tư
cách là mục đích chính của tổ chức đó (tổ chức thương mại), hoặc các tổ chức
mà không tìm kiếm lợi nhuận phái sinh với tư cách là mục đích chính và không
phân phối lợi nhuận phái sinh giữa các thành viên của tổ chức (tổ chức phi lợi
nhuận)”[1].
Bên cạnh đó, Điều 75, 76 BLDS năm 2015 chia pháp nhân thành hai loại chính:
Pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Nếu như BLDS năm 2005 quy
định về 6 loại pháp nhân dựa trên tiêu chí cơ cấu tổ chức và mục đích hoạt
động của pháp nhân, thì BLDS năm 2015 chia pháp nhân thành hai loại
chính là pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Theo đó, pháp nhân
thương mại là pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy
nhiên, phân loại pháp nhân của BLDS 2015 theo tiêu chí “mục đích chính là tìm
kiếm lợi nhuận” của pháp nhân thương mại và “không vì mục tiêu chính là tìm
kiếm lợi nhuận, không phân chia lợi nhuận cho các thành viên” của pháp nhân
phi thương mại là chưa thật sự phù hợp, bởi:
Một là, quy định “không phân chia lợi nhuận cho các thành viên” sẽ trở thành
rào cản lớn cho các pháp nhân phi thương mại khi hoạt động phát sinh có lợi,
khiến cho mục tiêu xã hội hóa các hoạt động công ích ngày càng trở nên khó
khăn trong xu hướng phát triển các hoạt động công ích theo hướng diện chi ngân
sách nhà nước đang dần được thu hẹp, hệ thống doanh nghiệp hoạt động công ích
với nguồn vốn xã hội hóa ngày càng tăng.
Hai là, Điều 76 BLDS năm 2015 quy định: “Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân
hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi
nhuận cho các thành viên”. Quy định này theo tác giả đã không bao quát được
những pháp nhân hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận nhưng sử dụng lợi nhuận đó vì
những mục tiêu, lợi ích chung hay lợi ích công, như vậy, với quy định này đồng
nhất việc tìm kiếm lợi nhuận với mục tiêu hoạt động của pháp nhân trong khi
việc tìm kiếm lợi nhuận và việc sử dụng lợi nhuận tìm kiếm được là hai vấn đề
hoàn toàn khác.
Hiện nay ở Việt Nam còn có khá nhiều quỹ có tư cách pháp nhân hoạt động không
vì mục đích lợi nhuận và để phục vụ các lợi ích công cộng, như: Qũy tài chính
công ngoài ngân sách nhà nước; Qũy bảo trì đường bộ; Qũy Trợ giúp pháp
lý Việt Nam, Qũy Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Qũy Phát triển khoa học
và công nghệ quốc gia, Qũy Đổi mới công nghệ quốc gia, Qũy Bảo vệ môi trường
Việt Nam, Qũy Phòng chống thiên tai,… Các quỹ này hoạt động phải bảo toàn vốn
điều lệ và tự bù đắp chi phí quản lý, vì vậy nhiều qũy được cho phép sử dụng
nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sinh lợi nhằm đáp ứng những yêu cầu đó. Như vậy,
nếu đối chiếu với quy định tại Điều 76 BLDS năm 2015, các qũy tài chính công
ngoài ngân sách nhà nước có được coi là các pháp nhân phi thương mại không?
Mặc dù khoản 2 Điều 76 BLDS năm 2015 có liệt kê một số pháp nhân phi thương
mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã
hội và các tổ chức phi thương mại khác. Việc đưa ra khái niệm không rõ ràng sẽ
rất khó khăn trong việc xác định các pháp nhân phi thương mại khác ngoài quy
định liệt kê của khoản 2 Điều 76 BLDS năm 2015.
Việc phân chia pháp nhân theo tiêu chí phân mục đích hoạt động chính sẽ hợp lý
hơn… theo đó “Pháp nhân phi thương mại hoạt động với mục đích chính là hoạt
động công ích, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình hoặc do mình quản
lý”, “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục đích lợi nhuận”, pháp nhân vừa
có mục đích hoạt động công ích, vừa có mục đích lợi nhuận thì phần kinh doanh
có lợi nhuận sẽ được áp dụng các quy định như PNTM để tránh trường hợp một số
doanh nghiệp công ích lợi dụng các ưu đãi của Nhà nước để thực hiện các hoạt
động kinh doanh có lợi nhuận nhưng lại được hưởng các quy chế tài chính, thuế
như loại hình kinh doanh phi lợi nhuận.[2]
Thứ hai: Về điều kiện và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của PNTM
Một là, về điều kiện chịu TNHS của PNTM
Điều 75 BLHS năm 2015, quy định:
“1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách
nhiệm hình sự của cá nhân.”
Theo quy định trên, PNTM chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ 4 điều
kiện sau:
-Điều kiện thứ nhất, hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM;
Pháp nhân nói chung, PNTM nói riêng là một thực thể xã hội khác với cá nhân,
bản thân PNTM không thể tự mình trực tiếp thực hiện được tội phạm, tội phạm
vốn là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà phải thông qua các cá nhân hoạt động
trong tổ chức, đó là những người lãnh đạo, đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, người vạch ra, người chỉ đạo hoặc người thực hiện các mục tiêu, chíến
lược sản xuất, kinh doanh của pháp nhân. Chính vì vậy, khoản 1 Điều 8 BLHS năm
2015, quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm …mà theo quy định của
Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”
PNTM tham gia vào quan hệ pháp luật là chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ
thể khác cho nên PNTM phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai dạng
năng lực của PNTM phát sinh đồng thời và thường là kể từ thời điểm đăng ký
hoạt động được cấp phép hoạt động, với các chức năng, nhiệm vụ được đăng ký.
Mọi hoạt động của PNTM được tiến hành thông qua hành vi của những cá nhân -
người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Hành vi của những cá nhân này không tạo
ra quyền và nghĩa vụ cho họ, mà PNTM tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho chính
mình.
Vì là thực thể xã hội nên hoạt động của PNTM phải thông qua hoạt động của
những con người cụ thể. Chỉ khi nào những hành vi phạm tội được thực hiện nhân
danh PNTM thì mới làm phát sinh điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân đó.
Người có thẩm quyền thực hiện hoạt động nhân danh PNTM có thể là người đại
diện theo pháp luật, người quản lý, điều hành và những người được ủy quyền,
phân công nhiệm vụ tại PNTM đó.
Trên thực tế, hoạt động của các doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế khác
nói chung, PNTM nói riêng đều thông qua người đại diện, vậy nên việc
phân biệt rõ đâu là người quản lý doanh nghiệp; người thành lập doanh nghiệp
với người đại diện của doanh nghiệp để từ đó xác định đâu là hành vi của người
đại diện của pháp nhân (doanh nghiệp) và PNTM để truy cứu TNHS đối với
của pháp nhân có ý nghĩa rất quan trọng.
Theo khoản 18 và khoản 19 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014:
-Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh
nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,
Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty
ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
-Người thành lập doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân thành lập hoặc góp vốn để
thành lập doanh nghiệp.
-Riêng về Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần, thì: Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài,
Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện
theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và
quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.Trường hợp
doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú
ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường
hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.Trường hợp hết thời hạn ủy quyền mà người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy
quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây:
+ Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy
quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm
việc tại doanh nghiệp;
+Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo
pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu
công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này
vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc
bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người
khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên
là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án
tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của BLHS
thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công
ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện
theo pháp luật của công ty.
-Điều kiện thứ hai, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM;
Hành vi phạm tội của PNTM có thể được thực hiện dưới hình thức hành động phạm
tội hoặc cũng có thể được thực hiện dưới hình thức không hành động phạm tội,
tuy nhiên, hành vi vi phạm đó phải nhân danh PNTM , pháp nhân đó là chủ thể
của vi phạm. Mặc dù, PNTM hoạt động thông qua hành vi của cá nhân nhưng những
hành vi đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân, đồng thời, hành vi của
những cá nhân đó được coi là hành vi và ý chí của pháp nhân thương mại, thông
qua sự hoạt động của PNTM đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội này
trong một chừng mực nhất định. Dạng hành vi phổ biến nhất đối với PNTM đó là
dạng pháp nhân không thực hiện một nghĩa vụ nào đó mà pháp luật buộc phải thực
hiện. Chẳng hạn, doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước;
trốn tránh việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động.
Bên cạnh đó, hành vi phạm tội phải được thực hiện vì lợi ích của PNTM. PNTM
phải là chủ thể được hưởng lợi từ hành vi phạm tội, các cá nhân nhân danh pháp
nhân thực hiện cá hành vi vì mục đích, lợi ích chung của pháp nhân đó. Những
lợi ích này thông thường là tài sản, tiền bạc, cũng có thể là những dạng lợi
ích vật chất khác, những lợi ích này có thể đã được mang lại hoặc chưa mang
lại cho pháp nhân. Ngược lại, PNTM không phải chịu TNHS về những tội
phạm do cá nhân trong pháp nhân đó thực hiện mà xuất phát từ lợi ích khác,
trường hợp này chỉ các cá nhân đó phải chịu TNHS, nếu hành vi đó đủ yếu tố cấu
thành tội phạm tương ứng quy định trong BLHS. Chẳng hạn, hành vi không thực
hiện đúng quy trình xử lý chất thải theo quy định của nhà máy, gây ô nhiễm môi
trường đặc biệt nghiêm trọng, nhưng lại do một nhóm người trực tiếp thực hiện
cố tình làm sai quy trình nhằm chiếm đoạt khoản chi phí xử lý chất thải
của nhà máy thì không có cơ sở xử lý TNHS của PNTM đó.
-Điều kiện thứ ba, hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành
hoặc chấp thuận của PNTM;
Như đã khẳng định, PNTM phạm tội thông qua các hành vi của các cá nhân trong
pháp nhân đó. Chính vì thông qua chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để
đưa ra những phương hướng, mục tiêu hoạt động, phân công vai trò, vị trí cho
các cá nhân trong pháp nhân để tổ chức thực hiện, hoặc chấp thuận các nhiệm vụ
cụ thể của các cá nhân trong pháp nhân đó. Do vậy, trường hợp tuy có đủ yếu tố
cầu thành tội phạm mà lẽ ra PNTM đó phải bị truy cứu TNHS theo quy định, nhưng
hành vi phạm tội đó không có sự chỉ đạo, điều hành, phân công hay đồng ý của
pháp nhân thì dù gây ra hậu quả nguy hại thế nào, TNHS cũng không đặt ra đối
với PNTM đó.
Có thể thông qua những hình thức khác nhau như: Nghị quyết Hội đồng quản trị
(công ty cổ phần), quyết định của Giám đốc, Tổng giám đốc hay những người được
ủy quyền. Ở đây, quy định của BLHS bao gồm cả sự chấp thuận của PNTM thông qua
những người có thẩm quyền cũng được coi là điều kiện để xem xét truy cứu TNHS
đối với PNTM. Ví dụ: Ý kiến đồng ý của Giám đốc – người đại diện theo pháp
luật của công ty trong bản đề xuất mua hàng hóa do các cơ quan chuyên môn của
pháp nhân đề nghị (hàng hóa thuộc danh mục cấm của Nhà nước), được coi là đã
có sự chấp thuận của PNTM đó.
-Điều kiện thứ tư, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS năm 2015.
Thời hiệu truy cứu TNHS tương tự như đối với cá nhân phạm tội: 05 năm
đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm
đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm
hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Điều này có nghĩa,
việc áp dụng hình phạt cho PNTM phạm tội không đồng nghĩa với việc bỏ qua TNHS
của thể nhân. PNTM phải chịu hình phạt khi thỏa mãn các điều kiện tại khoản 1
Điều 75 BLHS năm 2015. Với cá nhân, họ sẽ bị truy cứu TNHS khi hành vi của họ
thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS.
Quy định này không trái với nguyên tắc“không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm” (khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Bởi PNTM khi đã trở thành một thực
thể pháp lý, có những quyền, nghĩa vụ độc lập với những cá nhân tham gia với
tư cách là thành viên. Do vậy, PNTM và cá nhân khi thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật hình sự và bị kết án thì được hiểu đó là hành vi phạm tội do hai chủ
thể khác nhau thực hiện.Trường hợp người lãnh đạo, người đại diện theo pháp
luật hoặc theo ủy quyền của PNTM lại phạm tội do vượt quá thẩm quyền được
trao, hoặc lợi dụng danh nghĩa pháp lý hoặc vật chất của pháp nhân đó để thực
hiện tội phạm vì quyền hoặc lợi ích của mình, thì về nguyên tắc chỉ có cá nhân
liên quan phải chịu trách nhiệm về tội phạm đó, còn pháp nhân sẽ không bị truy
cứu TNHS về hành vi vượt quá của họ. Quy định này hướng đến phòng ngừa những
trường hợp cá nhân cố tình thực hiện hành vi phạm tội nhưng được che đậy dưới
danh nghĩa PNTM.
Qua nghiên cứu, để chứng minh thỏa mãn đầy đủ 4 điều kiện như trên khi truy
cứu TNHS đối với PNTM về tội phạm cụ thể, theo tác giả, là điều trở ngại trong
một số trường hợp và có thể là nguy cơ dẫn đến lọt tội. Ví dụ: Hành vi không
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước của PNTM, có thể thông qua một
trong các hành vi trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội
này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng
đến 1.000.000.000 đồng, như:
+Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế
sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn
nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
+Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số
tiền thuế phải nộp;
Đối với dạng hành vi không thực hiện nghĩa vụ này, theo tác giả, không đòi hỏi
thêm điều kiện khác vẫn có thể truy cứu TNHS đối với PNTM. Cụ thể, không cần
phải thỏa mãn điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015
“Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;”. Suy cho
cùng, điều kiện này không có ý nghĩa gì đối với việc xác định TNHS của PNTM có
hành vi phạm tội trốn thuế. Bởi dấu hiệu pháp lý của tội phạm này:
+Người phạm tội kể cả PNTM có hành vi trốn thuê, thuế được hiểu là mọi loại
thuế phải đóng bằng tiền với tính chất là nghĩa vụ bắt buộc và thể hiện qua
những thủ đoạn gian dối để không phải nộp tiền thuế hoặc để nộp tiền thuế ít
hơn mức thuế phải nộp, như: Không đăng ký, kê khai, kê khai gian dối, lập hóa
đơn chứng tử giả, làm sai lệch sổ sách kế toán… với mục đích để không phải
phải nộp thuế hoặc nộp với mức thấp hơn. Hành vi trốn thuế xâm phạm đến chế độ
quản lý thuế của Nhà nước, cụ thể là hoạt động thu ngân sách nhà nước (dẫn đến
thất thu ngân sách).
+Hành vi trốn thuế của PNTM phải thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành cơ bản hoặc
tăng nặng định khung quy định tại khoản 5 Điều 200 BLHS năm 2015.
Hai là, về phạm vi chịu TNHS của PNTM
Điều 76 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, quy định: “Pháp
nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một
trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209,
210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242,
243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.”.
Cụ thể: Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191
(tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng
giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh); Điều 195 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng
để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng,
giống vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203
(tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý
công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng
khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều
211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh
doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh
tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (Tội vi phạm quy định về nghiên
cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (Tội vi phạm quy định về khai
thác, bảo vệ rừng và lâm sản); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động
vật hoang dã); Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm
phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy
định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai;
vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh
thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ
hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý,
hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên);
Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại); Điều 300 (tội
tài trợ khủng bố); Điều 324 (tội rửa tiền).
So với quy định của BLHS năm 2015, PNTM chỉ phải chịu TNHS đối với 31 tội
danh. Đó là các tội liên quan đến buôn lậu; vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới; sản xuất, buôn bán hàng cấm; sử dụng thông tin nội bộ
để mua bán chứng khoán; trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho người lao động; gây ô nhiễm môi trường; đưa chất thải vào
lãnh thổ Việt Nam; hủy hoại rừng;... Thì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 2015 đã quy định thêm TNHS của PNTM đối với 2 tội phạm, đó là,
tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền, nâng số tội phạm mà PNTM phải chịu
TNHS là 33. Điều này là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ, Việt Nam rất coi trọng hợp
tác quốc tế trong phòng, chống ma tuý, bằng việc tăng cường, mở rộng quan hệ
hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực phòng, chống ma tuý với các
nước, các tổ chức phi Chính phủ, đặc biệt với sự hỗ trợ của Tổ chức phòng,
chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc (UNODC), với các nước tiểu vùng
sông Mêkông và với các quốc gia có chung đường biên giới. Ngày 01/9/1997, Chủ
tịch Nước CHXHCNVN đã ra Quyết định số 798/QĐ-CTN về việc tham gia 3 Công ước
quốc tế về kiểm soát ma tuý đó là: Công ước thống nhất về các chất ma tuý năm
1961; Công ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước của Liên hợp quốc
về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý và các chất hướng thần năm
1988. Năm 2000, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng, chống ma tuý được sửa
đổi, bổ sung năm 2008. Trong Luật Phòng, chống ma tuý nội dung quy định hợp
tác quốc tế về phòng chống ma tuý được ghi nhận tại Chương VI (từ Điều 46 đến
Điều 51). Bên cạnh đó, trong cuộc chiến chống tài trợ cho khủng bố, năm 1999,
Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố
(Công ước được 132 nước ký, 112 nước phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày
10/4/2002). Công ước yêu cầu các nước đã phê chuẩn, phải hình sự hóa chủ nghĩa
khủng bố, các tổ chức khủng bố, hành vi khủng bố, tài trợ cho khủng bố. Theo
đó, bất kỳ người nào cung cấp hoặc quyên góp tiền với ý định tài trợ hoặc sử
dụng để tiến hành bất kỳ một hành vi khủng bố nào, sẽ được xem là hành vi bất
hợp pháp. Việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương
mại với tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền có ý nghĩa rất quan trọng, tạo
thuận lợi trong hợp tác quốc tế đặc biệt là về thương mại, đầu tư, tài chính,
ngân hàng phục vụ phát triển đất nước; vì hiện nay, Việt Nam đã tham gia Công
ước của liên hợp quốc về phòng chống vận chuyển trái phép chất ma túy và các
chất hướng thần (1988), Công ước của Liên hợp quốc về ngăn chặn tài trợ cho
khủng bố (1999), cũng như Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia (2000), theo yêu cầu của các Công ước này các quốc gia
thành viên có nghĩa vụ phải hình sự hóa hành vi tài trợ khủng bố và rửa tiền
đối với pháp nhân.
Qua nghiên cứu tác giả thấy rằng, BLHS năm 2015 thừa nhận giữa các PNTM có thể
là đồng phạm với nhau trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng nhà làm luật
chưa có đặt ra quy định cụ thể về chế định này đối với PNTM.
Điều 17 BLHS năm 2015 có quy định về đồng phạm. Mà theo đó:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm.
4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
người thực hành.”
Theo tác giả chắc chắn không thể áp dụng đối với trường hợp 1 người và 1 PNTM
cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Vậy, nếu trường hợp này có xảy ra trong thực
tiễn thì xử lý như thế nào khi lượng hình phạt? Mặt khác, một trong những tình
tiết tăng nặng TNHS đối với PNTM, đó là, “Câu kết với pháp nhân thương mại
khác để phạm tội;”. Vậy, nếu có trường hợp này xảy ra, thì cơ sở pháp lý nào
để Tòa án áp dụng quy định về đồng phạm khi lượng hình phạt? Trong khi BLHS
năm 2015, không có điều khoản nào quy định về đồng phạm là PNTM. Hơn nữa, khi
áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 BLHS năm 2015, thì sự “câu kết”
giữa các PNTM cùng thực hiện tội phạm chưa phản ánh rõ vai trò của từng
PNTM trong vụ án, có thể pháp nhân này giữ vai trò là thực hành; pháp
nhân kia giữa vai trò giúp sức hoặc vai trò tổ chức, trong trường hợp này Tòa
án căn cứ vào đâu để nhận định vai trò đồng phạm của từng pháp nhân?
Thứ ba: Quy định của BLTTHS năm 2015 về PNTM.
Khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị
khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện
thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ
luật này”. Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo là người hoặc
pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo
là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật này”.
BLTTHS năm 2015 cũng đồng thời quy định quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng trong
các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đối với
pháp nhân thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; thủ tục tố
tụng truy cứu TNHS pháp nhân, từ Điều 431 đến Điều 446 BLTTHS năm 2015. Cụ
thể:
+ Điều 431 BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng BLTTHS đối với pháp nhân:
“Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không
trái với quy định của Chương này”. Như vậy, với tư cách là chủ thể của pháp
luật tố tụng hình sự, pháp nhân thông qua người đại diện theo pháp luật có
quyền và nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy
định tại Điều 434 BLTTHS năm 2015. Mà theo đó, tại khoản 1 của Điều này, quy
định:
“1. Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được
thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và
bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan,
người có thẩm quyền.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử
người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường
hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người
đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho
pháp nhân tham gia tố tụng”
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia vào
quá trình tố tụng hình sự được quy định tại Điều 435 BLTTHS năm 2015. Như vậy,
nếu pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS thì cũng có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ tố tụng như người bị buộc tội. Các quyền và nghĩa vụ tố tụng này được
thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của PNTM đó.
Ngoài ra, theo quy định tại các Điều 436 đến Điều 439 BLTTHS năm 2015 một số
biện pháp cưỡng chế áp dụng với pháp nhân phạm tội nhằm bảo đảm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được diễn ra bình thường, như:
“a) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
b) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp
nhân;
c) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm
tội của pháp nhân;
d) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án”
Một trong những vấn đề được xem xét trước khi quy định pháp nhân là chủ thể
của pháp luật tố tụng hình sự chính là việc chứng minh những nội dung quan
trọng để định tội danh đối với pháp nhân, đó là các yếu tố hành vi phạm tội,
yếu tố lỗi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi – hậu quả, cũng giống
như đối với chủ thể phạm tội là cá nhân con người cụ thể. Điều 441 BLTTHS năm
2015 quy định:
“1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo
quy định của Bộ luật hình sự.
2. Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân.
3. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra.
4. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết khác
liên quan đến miễn hình phạt.
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội”.
Theo quy định tại Điều 442 BLTTHS năm 2015, trước khi lấy lời khai, Điều tra
viên, cán bộ điều tra phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời
gian, địa điểm lấy lời khai. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia
việc lấy lời khai.
Nghiên cứu quy định này có thể thấy, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho PNTM bị truy cứu TNHS thông qua người đại diện theo pháp luật của
phán nhân đó, được gọi là người bào chữa. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 72 BLTTHS
năm 2015: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.”. Trong khi đó, PNTM
là thực thể xã hội khác với cá nhân, không phải là con người cụ thể. Như
vậy, trường hợp này, theo tác giả không thể gọi là người bào chữa, mặc dù, họ
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của PNTM đó.
Điều 84 BLTTHS năm 2015, có quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích của bị
hại và đương sự. Tuy nhiên, theo tác giả cũng không thể xác định tư cách tham
gia tố tụng của luật sư trong vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của PNTM i
trong trường hợp bị điều tra, truy tố, xét xử là Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của PNTM. Vì: Trước hết, BLTTHS năm 2015 không có điều khoản nào quy
định về “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân thương mại”, do
vậy, không thể tùy tiện gán ghép theo ý muốn chủ quan. Mặt khác, khi
PNTM bị điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm được quy định tại Điều 76 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, đi cùng với đó là các chế tài
có thể bị Tòa án áp dụng, gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn; Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định; Cấm huy động vốn. Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng các biện pháp tư
pháp theo quy định tại Điều 84 BLHS năm 2015. Do vậy, PNTM đó không thể gọi là
bị đơn, mà là bị cáo.
Từ những phân tích trên có thể thấy, khái niệm về người bào chữa theo quy định
tại khoản 1 Điều 72 BLTTHS năm 2015, nhà làm luật đã không bao quát hết đối
tượng thuộc chủ thể người tham gia tố tụng, cụ thể, chưa đề cập đến đối tượng
là PNTM nhờ bào chữa.